Thưa luật sư, nhà tôi có một mảnh đất nông nghiệp được ông tôi khai hoang từ ngày xưa và hiện tại chúng tôi đang dùng để trồng cây ăn quả có diện tích khoảng 24m2 ngay bên cạnh đường. Theo thông báo thì sẽ bị thu hồi để mở cầu sang bên kia đường; Thế nhưng chúng tôi vẫn chưa có được thông báo và được cơ quan chính quyền địa phương đến thỏa thuận vì đây là mảnh đất của chúng tôi. Tôi muốn hỏi luật sư là nếu thu hồi đất nông nghiệp thì có được bồi thường không? Quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp như thế nào? Mong luật sư tư vấn.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi; để giải đáp thắc mắc của bạn; cũng như vấn đề: Thu hồi đất phải thỏa thuận với dân; Cần phải làm như thế nào? Đây chắc hẳn; là thắc mắc của; rất nhiều người để giải đáp thắc mắc đó cũng như trả lời cho câu hỏi ở trên; thì hãy cùng tham khảo qua; bài viết dưới đây của chúng tôi để làm rõ vấn đề nhé!
Căn cứ pháp lý
- Luật đất đai năm 2013
- Luật dân sự năm 2015
Khái niệm thu hồi đất là gì?
Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể tại khoản 11 Điều 3 Luật đất đai năm 2013, “thu hồi đất” được hiểu là trường hợp Nhà nước ra quyết định thu lại quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đang thuộc quyền sử dụng đất của người khác nếu người này có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai trong quá trình sử dụng đất.
Trên cơ sở khái niệm thu hồi đất được xác định ở trên, có thể hiểu, khi xảy ra sự kiện thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân, tổ chức đang sử dụng đất có nghĩa vụ phải trả lại phần đất thuộc diện thu hồi mà họ đang sử dụng cho Nhà nước. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào Nhà nước cũng có thể tự lấy đất từ phía người dân, mà hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể tại Điều 16 và các điều từ Điều 61 đến Điều 65 Luật đất đai năm 2013 thì Nhà nước chỉ được thực hiện việc thu hồi đất nếu việc thu hồi đất thuộc một trong những trường hợp mà pháp luật quy định.
Nhà nước thu hồi đất trong những trường hợp nào?
Theo quy định tại khoản 1, Điều 16 Luật Đất đai 2013, Nhà nước sẽ tiến hành thu hồi đất trong các trường hợp sau:
– Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;
– Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai;
– Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người
Việc nhà nước tiến hành thu hồi đất phải dựa trên căn cứ theo quy định của pháp luật đất đai.
Đối với trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, Nhà nước chỉ được tiến hành thu hồi đất khi xây dựng căn cứ quân sự, Xây dựng công trình phòng thủ quốc gia, trận địa và công trình đặc biệt về quốc phòng, an ninh; xây dựng ga, cảng quân sự; xây dựng công trình công nghiệp, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, an ninh; xây dựng kho tàng của lực lượng vũ trang nhân dân…( Theo quy định tại Điều 61 Luật Đất đai 2013)
Đối với trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội, Nhà nước chỉ được tiến hành thu hồi đất khi thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư mà phải thu hồi đất; thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư; thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận.( Theo quy định tại Điều 62 Luật Đất đai 2013).
Đối với trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai, Nhà nước chỉ được tiến hành thu hồi đất khi sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm; người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền; đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật này mà nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho; đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm…( Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai 2013).
Đối với trường hợp thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người, Nhà nước tiến hành thu hồi đất khi cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn nhưng không được gia hạn; đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người…( Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật Đất đai 2013).
Người dân có được thỏa thuận với nhà nước về mức giá bồi thường, hỗ trợ?
Theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 69 Luật Đất đai 2013:
“Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền.”
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2, Điều 28 Nghị định 47/2014/NĐ-CP, việc lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 69 của Luật Đất đai 2013 và phải niêm yết, tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân trong khu vực có đất thu hồi ít nhất là 20 ngày, kể từ ngày niêm yết.
Ta có thể thấy, Nhà nước vẫn tạo điều kiện cho người dân đóng góp ý kiến về việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Đối với những trường hợp người dân không đồng ý phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì sẽ được Nhà nước tiến hành tổ chức đối thoại.
Tuy nhiên, về mức bồi thường đất, hỗ trợ, tái định cư vẫn phải tuân theo quy định pháp luật Đất đai 2013, cụ thể:
Đối với mức bồi thường đất phải thực hiện theo nguyên tắc tại khoản 2, Điều 74 Luật Đất đai 2013, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Đối với mức bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại thì phải thực hiện xác định theo công thức quy định tại khoản 4, Điều 3 Nghị định 47/2014/NĐ-CP.
Đối với mức bồi thường về nhà, công trình xây dựng thì được xác định dựa theo tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của nhà, công trình đó nhân (x) với giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ quản lý chuyên ngành ban hành.( Theo quy định tại Khoản 1, Điều 9 Nghị định 47/2014/NĐ-CP)
…
Do đó, người dân có thể thỏa thuận với Nhà nước về mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng không được phép cao hơn mức quy định pháp luật đất đai.
Lưu ý:
– Các quy định nêu trên chỉ áp dụng đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Điều 61, Điều 62, Điều 64 và Điều 65 Luật Đất đai 2013
– Đối với các trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện dự án, công trình sản xuất, kinh doanh không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật Đất đai 2013 mà phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì người dân có quyền thỏa thuận mức bồi thường với chủ đầu tư không cần tuân theo quy định của pháp luật đất đai. Trong trường hợp này, người dân có thể yêu cầu chủ đầu tư bồi thường đất theo giá thị trường.( Theo quy định tại Điều 73 Luật Đất đai 2013).
Người dân có bắt buộc phải giao đất khi không thỏa thuận được với Nhà nước?
Cùng với việc xác định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, vấn đề thu hồi đất có phải thỏa thuận với người dân cũng là thắc mắc của không ít người. Căn cứ theo khoản 2, Điều 71 Luật Đất đai 2013, Nhà nước sẽ tiến hành cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất trong trường hợp sau:
– Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục;
– Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi;
– Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành;
– Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.
Do đó, kể cả trường hợp người dân không thỏa thuận được với nhà nước và không tự nguyện giao đất cho Nhà nước thì Nhà nước sẽ tiến hành ra Quyết định cưỡng chế thu hồi đất, buộc người dân phải giao đất. Việc tiến hành cưỡng chế thu hồi đất phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại khoản 4, Điều 71 Luật Đất đai 2013.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là quan điểm của Tư vấn luật đất đai về “Thu hồi đất phải thỏa thuận với dân”. Chúng tôi hi vọng rằng kiến thức trên sẽ giúp ích cho bạn đọc và bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Nếu quý khách có nhu cầu Tư vấn đặt cọc đất, bồi thường khi thu hồi đất , Bồi thường thu hồi đất, Đổi tên sổ đỏ, Làm sổ đỏ, Tách sổ đỏ, Giải quyết tranh chấp đất đai, tư vấn luật đất đai…, Để biết thêm thông tin chi tiết hoặc cần tư vấn về các vấn đề liên quan đến đất đai vui lòng liên hệ qua hotline: 0833 102 102.
Mời bạn xem thêm:
- Thời hạn chi trả tiền bồi thường cho người có đất thu hồi quy định bao lâu?
- Kinh doanh bất động sản có bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp không?
- Đất đang có tranh chấp thì có được đưa vào kinh doanh không?
Câu hỏi thường gặp:
Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT đảm bảo phù hợp với Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. Cụ thể: Điểm a Khoản 2 Điều 82 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định, đối với trường hợp người sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong khi đó, tại khoản 4 Điều 9 của Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT lại quy định nộp đơn đăng ký biến động đất đai.
Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nội dung này được quy định tại Hiến pháp và Luật Đất đai, cụ thể Điều 4 Luật Đất đai 2013 quy định rõ như sau:
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.
Như vậy, đất đai không thuộc quyền sở hữu riêng của bất kỳ tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nào. Mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu nhưng Nhà nước không thể tự mình sử dụng toàn bộ diện tích đất nên Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất bằng những hình thức như:
(1) Công nhận quyền sử dụng đất: (2) Nhà nước giao đất: (3) Nhà nước cho thuê đất:
Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”.
Như vậy, người sử dụng đất dù có đủ điều kiện được bồi thường về đất theo quy định của Luật Đất đai nhưng không phải là chủ sở hữu đất đai nên không có đủ 03 quyền năng của chủ sở hữu tài sản, gồm: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Vì không phải là chủ sở hữu nên khi Nhà nước thu hồi đất người sử dụng đất không có quyền thỏa thuận, quyết định giá bồi thường về đất.
Giá bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh và để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định. Giá đất để tính tiền bồi thường còn được gọi là giá đất cụ thể.
Theo điểm đ khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai 2013, khoản 5 Điều 4 Nghị định 44/2014/NĐ-CP và khoản 4 Điều 3 Nghị định 01/2017/NĐ-CP, giá đất cụ thể xác định bằng phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất áp dụng với trường hợp tính tiền bồi thường đất khi Nhà nước thu hồi được tính theo công thức sau:
Giá trị thửa đất cần định giá (01m2) = Giá đất trong bảng giá đất x Hệ số điều chỉnh giá đất