Hiện nay tình trạng đất tại nhiều nơi trên khắp cả nước ta bị bỏ hoang nhiều năm không triển khai,bỏ dở các dự án xây dẫn đến chậm tiến độ, bỏ hoang phế hàng chục năm, hay những năm gần đây, tình trạng bỏ hoang đất sản xuất nông nghiệp ngày càng phổ biến, điều này đã dẫn đến tình trạng lãng phí tài nguyên đất ở nước ta hiện nay. Để nhằm hạn chế tình trạng này, nhiều người đã đưa ra ý kiến về việc đánh thuế đất bỏ hoang. Vậy thì việc ” Đánh thuế đất bỏ không” có nên hay không?. Hãy cùng Tư vấn luật đất đai tìm hiểu ngay nhé.
Thực trạng đất bị bỏ không hiện nay
Với sự phát triển không ngừng của nền khoa học kỹ thuật, hiện nay tại nước ta cũng như các nước khác trên thế giới thì tỷ lệ các ngành sản xuất công nghiệp hay dịch vụ ngày càng phát triển, kéo theo đó chính là tình trạng nhiều người dân bỏ sản xuất nông nghiệp dẫn đến tình trạng bỏ hoang đất, hay như việc hiện nay có nhiều dự án chậm tiến độ cũng gây nên việc bỏ hoang gây lãng phí đất.
Theo đó, căn cứ xác định đất bỏ hoang là đất đai không được sử dụng, khai thác đúng mục đích hay có quy hoạch hoặc kế hoạch sử dụng đất mà chưa được thực hiện. Điều này dẫn đến việc đất bỏ không trong một khoảng thời gian dài. Như vậy, tiêu chí để xác định đất hoang là mục đích sử dụng đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và thời gian đình trệ, không thực hiện việc khai thác, sử dụng đất.
Hiện nay, ở Hà Nội, thành phố Hồ Chi Minh hay tại nhiều thành phố lớn khác trên cả nước, đang có hàng chục dự án bị bỏ hoang cả chục năm không triển khai thực hiện.
Hậu quả của tình trạng đất bỏ hoang là việc gây nên sự bức xúc trong dư luận. Bỏ hoang đất làm lãng phí tài nguyên dẫn đến tình trạng bất ổn trong chính sách quản lý đất đai. Thêm vào đó là việc trì trệ, cản trở sự phát triển của kinh tế – xã hội cuả đất nước.
Bên cạnh các dự án lớn, một số bất động sản nhỏ, lẻ của cá nhân cũng bị bỏ hoang, không sử dụng do tình trạng đầu cơ đất. Trong khi, giá đất ngày càng tăng nhiều gia đình phải sống trong cảnh 5-6 người sống trong căn hộ 40 – 50 m2 thì bất động sản lại rơi vài tay một số người với mục đích kinh doanh mua đi, bán lại mà không có nhu cầu sử dụng thực tế. Hậu quả ngoài việc gây lãng phí còn làm mất mỹ quan và ảnh hưởng đến định hướng phát triển đô thị.
Từ việc chính quyền cấp xã, thậm chí là cấp thôn, hợp tác xã tự ý cấp đất, cho thuê đất trái thẩm quyền đến việc các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn được Nhà nước giao nhiều đất nhưng để hoang hóa, để nhiều cá nhân lợi dụng kinh doanh, thu lợi cá nhân đang phản ánh thực trạng quản lý đất đai lỏng lẻo ở nhiều địa phương.
Ngay ở Hà Nội, nơi “tấc đất tấc vàng”, kết quả rà soát của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho thấy có 30 cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đang để hoang hóa hàng trăm nghìn m2 đất, biến đất thành khu dịch vụ tổng hợp gồm các quán bar, karaoke, nhà hàng, siêu thị, sân tennis, bãi giữ xe… – Chuyện “dự án treo” và đất quy hoạch sân gôn tập trung ở các nơi vốn là đất hai vụ lúa, đất “bờ xôi ruộng mật” không được sử dụng hiệu quả, bỏ hoang hóa, đang có nguy cơ thu hẹp mục tiêu giữ vững 3,8 triệu ha đất lúa.
Đánh thuế đất bỏ không có nên hay không?
Trước thực trạng diện tích đất nông nghiệp cũng như đất phi nông nghiệp bị bỏ hoang ngày càng lớn thì việc tìm ra giải pháp để làm giảm tình trạng bỏ hoang đất là rất cần thiết. Vậy nên vấn đề cấp thiết hiện nay đó chính là tìm ra giải pháp, trong đó có cả việc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn đời sống.
Hiện nay, Luật Đất đai năm 2013 có quy định về việc thu hồi dự án chậm tiến độ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 64, tuy nhiên biện pháp này thông qua quá trình thực hiện chưa thực sự hiệu quả. Quy định này chỉ áp dụng cho dự án của tổ chức mà được Nhà nước giao, còn đối với những thửa đất của cá nhân hay các dự án nhà ở riêng lẻ thì chưa có một chế tài, biện pháp cụ thể nào được đưa ra. Đây là một thiếu sót lớn của pháp luật đất đai hiện hành, dẫn đến tình trạng mua để đầu cơ mà chưa được sử dụng đúng mục đích.
Gần đây, tình trạng đất đã được phê duyệt dự án nhưng bị bỏ hoang nhiều năm gây lãng phí tài nguyên, thất thoát ngân sách. Do đó việc dùng chính sách thuế tăng cao đánh vào đất bỏ hoang, nhằm chống việc đầu cơ đất đai là điều rất cần thiết.
Đầu cơ đất đai được cho là việc một người hay tổ chức nào đó mua vào một số lượng lớn quyền sử dụng đất, để tích trữ và bán ra khi có sự chênh lệch về giá. Do đất đai có hạn, đầu cơ gây ra sự khan hiếm giả đẩy giá đất tăng cao gây ảnh hưởng nền kinh tế.
Đánh thuế là một trong những giải pháp phổ biến nhất để quản lý tài nguyên đất đai một cách hiệu quả tại nhiều quốc gia có thị trường bất động sản phát triển trên thế giới. Cách đánh thuế thường đa dạng và linh hoạt chứ không rập khuôn một trường hợp duy nhất.
Ví dụ đánh thuế nặng những khu đất bỏ trống, hoang phế, trì hoãn xây dựng và không thể đưa vào khai thác phục vụ xã hội nhằm chặn dòng tiền chết nằm trong đất với mục đích duy nhất chờ tăng giá. Cơ quan quản lý Nhà nước có thể cân nhắc đánh thuế lũy tiến mảnh đất bỏ hoang thứ hai, thứ ba trở đi để chống đầu cơ. Thuế đất vừa được xem là công cụ điều tiết thị trường, đồng thời cũng chống lãng phí tài nguyên đất đai.
Đất nông nghiệp bỏ hoang có bị thu hồi không?
Hiện nay các khu công nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều tại các vùng ngoại thành, các vùng sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng có rất nhiều người dân bỏ sản xuất nông nghiệp để đi làm công nhân hay các công việc khác. Điều này đã dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp bị bỏ hoang tại rất nhiều địa phương, gây ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất nông nghiệp của địa phương đó cũng như cả nước. Vậy nên trong nhiều trường hợp Nhà nước tiến hành thu hồi các diện tích đất bị bỏ hoang này lại để cải tạo và cho thuê, giao đất cho những người khác có nhu cầu sử dụng đất.
Việc thu hồi đất nông nghiệp bị bỏ hoang của Nhà nước được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 64 Luật đất đai 2013. Thực chất đây là một trường hợp mà Nhà nước thu hồi đất do người dân vi phạm pháp luật đất đai.
Việc thu hồi đất do nông nghiệp bị bỏ hoang phải căn cứ vào văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai. Hiện nay, thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp bị bỏ hoang tùy từng trường hợp mà được xác định như sau:
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
- Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
- Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
- Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Trong trường hợp khu vực thu hồi đất có cả đối tượng thuộc thẩm quyền thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề “Đánh thuế đất bỏ không“. Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay nhu cầu dùng đến dịch vụ bồi thường khi nhà nước thu hồi đất cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833102102 để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Không canh tác đất trồng lúa hơn 01 năm thì có bị thu hồi không?
- Kinh doanh bất động sản có bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp không?
- Mẫu hợp đồng môi giới nhà đất mới năm 2022
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai 2013 quy định về các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai như sau:
“Điều 64. Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai
1. Các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm:
a) Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm;
b) Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
c) Đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
d) Đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật này mà nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho;
đ) Đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm;
e) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
g) Người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không chấp hành;
h) Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng liên tục;
i) Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng;
trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng.”
Như vậy, theo quy định này, đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng liên tục thì sẽ bị thu hồi do vi phạm đất đai .
Dựa trên Điều 32 Nghị định 91/2019/NĐ-CP về vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, những người sử dụng đất nông nghiệp có hành vi không sử dụng đất trồng cây hàng năm liên tục trong 12 tháng, đất trồng cây lâu năm liên tục trong 18 tháng, đất trồng rừng liên tục trong 24 tháng, trừ trường hợp bất khả kháng, sẽ bị phạt tiền như sau:
– Khi diện tích đất nông nghiệp không sử dụng, bỏ hoang dưới 0.5 héc ta, sẽ phải chịu phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng;
– Đối với diện tích đất nông nghiệp không sử dụng, bỏ hoang từ 0,5 héc ta đến dưới 03 héc ta, sẽ bị phạt một số tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
– Nếu diện tích đất nông nghiệp không sử dụng, bỏ hoang từ 03 héc ta đến dưới 10 héc ta, sẽ bị phạt một số tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
– Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng là mức phạt mà người sử dụng đất nông nghiệp sẽ phải trả nếu không sử dụng hoặc bỏ hoang diện tích đất từ 10 héc ta trở lên.
– Ngoài việc bị phạt tiền, người sử dụng đất còn phải bắt buộc sử dụng đất theo mục đích do Nhà nước giao, cho thuê hoặc công nhận quyền sử dụng đất.