Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá đối với quốc gia. Các chủ trương, chính sách về thực thi quy định luật đất đai và các biện pháp nhằm ngăn chặn đối với các hành vi xâm phạm đến chủ quyền của quốc gia hay đối với người sử dụng đất luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và quan tâm. Nhưng trên thực tế cho thấy, các trường hợp vi phạm về đất đai xuất hiện ngày một nhiều khi nền kinh tế thị trường ngày một phát triển và lợi thế mà đất đai mang lại ngày một tăng cao. Câu hỏi đặt ra những nguyên nhân dẫn đến sai phạm về đất đai bắt nguồn từ đâu?
Bài viết dưới đây của Tư vấn luật Đất đai sẽ làm sáng tỏ vấn đề là trả lời cho câu hỏi Nguyên nhân dẫn đến sai phạm về đất đai? Mời bạn đón đọc ngay nhé!
Căn cứ pháp lý
- Luật Đất đai 2013
Thế nào là sai phạm về đất đai?
Sai phạm về đất đai là những hành vi trái với quy định của pháp luật. Những hành vi này được thực hiện một cách cố ý hoặc cũng có thể là vô ý. Những hành vi đó xâm phạm đến quyền lợi của Nhà nước, quyền lợi và lợi ích đến người sử dụng đất. Hệ quả dẫn đến xảy ra tranh chấp về đất đai.
Các dạng sai phạm dẫn đến tranh chấp đất đai
Thứ nhất, tranh chấp về quyền sử dụng đất
Tranh chấp đất đai về quyền sử dụng đất là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó.Loại tranh chấp này được thể hiện dưới các hình thức như:
– Tranh chấp giữa những người sử dụng đất với nhau về ranh giới giữa những vùng đất được phép sử dụng và quản lý. Loại tranh chấp này thường là do các bên sử dụng đất không thoả thuận được với nhau hoặc là do một bên tự ý thay đổi ranh giới sử dụng trong quá trình đất đai được chuyển nhượng qua tay nhiều người, cho thuê, cho thuê lại, cũng có thể là do sai sót từ phía cơ quan nhà nước trong quá trình đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
– Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ thừa kế. Loại tranh chấp này phát sinh trong trường hợp người chết có quyền sử dụng đất đai nhưng khi chết không để lại di chúc hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp một phần hay toàn bộ mà các đồng thừa kế lại không tự thoả thuận được với nhau nên khởi kiện ra toà. Loại tranh chấp này có trường hợp có tài sản gắn liền với đất, có trường hợp trên đất tranh chấp không có tài sản.
– Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ ly hôn giữa vợ và chồng. Quyền sử dụng đất có được trong thời kỳ hôn nhân do nhận chuyển nhượng, được Nhà nước giao đất, được tặng cho, khai hoang được Nhà nước thừa nhận hoặc được thừa kế. Khi ly hôn hai người không tự thoả thuận được với nhau nên phát sinh tranh chấp.
– Đòi lại đất, tài sản gắn liền với đất. Loại tranh chấp này phát sinh trong trường hợp trước đây người có quyền sử dụng đất đã cho mượn, cho thuê nhà đất, cho ở nhờ nhưng nay những người mượn, thuê, ở nhờ không chịu trả, hoặc do theo chính sách pháp luật của Nhà nước đất đã được chia, cấp cho người khác nên nay họ khởi kiện để đòi lại, hoặc đất đã được tặng cho nhưng nay vì nhiều lý do khác nhau, người đã tặng cho đòi lại đất,…
– Tranh chấp giữa đồng bào dân tộc địa phương với đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới, giữa đồng bào địa phương với các nông trường, lâm trường với các tổ chức sử dụng đất khá
Thứ hai, tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất
Việc một bên vi phạm, làm cản trở tới việc thực hiện quyền của phía bên kia hoặc một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình cũng phát sinh tranh chấp. Loại tranh chấp này thường thể hiện ở các hình thức như:
– Tranh chấp do việc thực hiện quyền sử dụng đất bị cản trở: Loại tranh chấp này phát sinh khi một bên được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nhưng lại không thể sử dụng được do bị người khác cản trở.
– Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
– Tranh chấp về việc bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
Thông thường đây là các tranh chấp liên quan đến mức độ và diện tích được bồi thường do người sử dụng đất không thoả mãn với mức bồi thường. Đây là tranh chấp giữa người đại diện chủ sở hữu (Nhà nước), người được giao quản lý với người sử dụng đất. Loại tranh chấp này cũng là loại tranh chấp điển hình và gay gắt.
Thứ ba, tranh chấp về mục đích sử dụng đất
Đây là dạng tranh chấp ít gặp hơn, những tranh chấp này liên quan đến việc xác định mục đích sử dụng đất là gì? Đặc biệt là tranh chấp trong nhóm đất nông nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi trồng thủy sản, giữa đất trồng cây hàng năm với đất trồng cây lâu năm, giữa sử dụng đất nông nghiệp hoặc đất trồng cây lâu năm với đất thổ cư,… trong quá trình phân bổ và quy hoạch sử dụng đất. Thông thường những tranh chấp này có cơ sở để giải quyết vì trong quá trình phân bổ đất đai cho các chủ thể sử dụng, Nhà nước đã xác định mục đích sử dụng đất thông qua quy hoạch sử dụng đất. Tranh chấp chủ yếu do người sử dụng đất sử dụng sai mục đích so với khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
Nguyên nhân dẫn đến sai phạm về đất đai
Đất đai là một trong những nguồn tài nguyên ngày càng có giá trị cao. Chính vì vậy mà hiện nay, các vụ việc tranh chấp đất diễn ra ngày càng nhiều và vô cùng phức tạp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sai phạm về đất đai như:
Thứ nhất, do cơ chế quản lý đất đai chưa chặt chẽ. Công tác quản lý đất đai hiện nay, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM đang đứng trước khá nhiều thách thức cần phải vượt qua. Sự thiếu đồng bộ trong các chính sách pháp luật cũng làm cho công tác quản lý gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Chưa có hệ thống quản lý điện tử cũng khiến cho vấn đề giải quyết thủ tục còn phức tạp, bộ máy giải quyết cồng kềnh, tốn thời gian cho cán bộ giải quyết và cả những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan đến tranh chấp.
Thứ hai, cán bộ, nhân viên quản lý đất đai năng lực còn yếu kém. Với mức độ sai phạm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến, căng thẳng và phức tạp, có xu hướng tăng lên mạnh mẽ đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, nhân viên quản lý chuyên môn cao mới có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, việc này lại khá khó khăn khi áp dụng trên thực tế bởi cán bộ, nhân viên quản lý vẫn còn yếu kém về năng lực cũng như trình độ chuyên môn, giải quyết không nhanh chóng, không thể đưa ra giải pháp xử lý hợp lý nhất khiến cho mâu thuẫn tranh chấp đôi khi càng được đẩy lên cao trào.
Thứ ba, công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn nhiều bất cập. Chỉ đạo tốt, lãnh đạo tốt với đường lối phù hợp, đúng đắn, nắm bắt kịp thời sự phát triển và thay đổi từng ngày của xã hội mới có thể giúp cán bộ, nhân viên thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo. Tuy nhiên, vấn đề chỉ đạo và lãnh đạo tại một số địa phương vẫn còn gặp khá nhiều bất cập do ảnh hưởng từ khá nhiều yếu tố khách quan, chủ quan khác nhau. Chỉ đạo và lãnh đạo cấp dưới thực hiện không mạnh mẽ, quyết liệt hay chỉ đưa ra nhằm khắc phục tạm thời sự mâu thuẫn mà không dự đoán lâu dài xu hướng của việc tranh chấp cũng làm cho tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp, giải quyết gặp nhiều vấn đề khó khăn.
Thứ tư, Các lối chính sách, pháp luật về đất đai chưa được đồng bộ. Văn bản này chỉ đạo thực hiện vấn đề đó theo một hướng, một văn bản khác có liên quan lại chỉ đạo, hướng dẫn giải quyết theo một quy trình khác. Lúc này, sự mâu thuẫn trong từng văn bản, hay đường lối chính sách trước hết là gây sự bối rối cho cán bộ giải quyết. Tiếp theo, từ sự thiếu đồng bộ có thể dẫn đến sự hiểu sai khá trầm trọng, từ đó giải quyết không thỏa đáng vấn đề của chủ thể trong quan hệ tranh chấp có yêu cầu.
Thứ năm, Các văn bản pháp luật chưa được phổ cập rộng rãi tới người dân. Một xã hội phát triển là khi công dân có ý thức pháp luật tốt, tuân theo quy định và làm theo những gì pháp luật không cấm. Tuy nhiên, không hiểu biết pháp luật, cụ thể là quy định pháp luật về đất đai rất dễ khiến người dân lầm tưởng về quyền lợi, lợi ích của mình đối với quyền sử dụng đất. Từ đó, họ vướng vào tranh chấp đất đai dù thực tế vấn đề đó có thể giải quyết đơn giản chỉ bằng sự hiểu biết pháp luật, hiểu về quyền cũng như nghĩa vụ của mình.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của tư vấn luật Đất đai về vấn đề “Nguyên nhân dẫn đến sai phạm về đất đai?“. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Nếu quý khách có nhu cầu Tư vấn đặt cọc đất, Bồi thường thu hồi đất, Đổi tên sổ đỏ, Làm sổ đỏ, Tách sổ đỏ, Giải quyết tranh chấp đất đai, tư vấn luật đất đai…, mời quý khách hàng liên hệ đến hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm:
- Mẫu hợp đồng mua bán nhà đất mới năm 2022
- Cách tra cứu chỉ giới xây dựng nhanh, đơn giản
- Tranh chấp thừa kế nhà đất giải quyết thế nào?
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai,hành vi lấn, chiếm đất bị xử phạt như sau:
Trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,05 héc ta;
b) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta;
c) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta;
d) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta;
đ) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên.
Hòa giải tự nguyện và hòa giải tại cơ sở là hình thức hòa giải được Nhà nước khuyến khích khi xảy ra tranh chấp. Theo đó, trường hợp các bên không thể tự hòa giải thì gửi đơn đến UBND xã nơi có đất tranh chấp để tiến hành hòa giải (Điều 202 Luật Đất đai 2013).
Mặc khác, theo khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định rõ, với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp thì được xác định là chưa đủ điều kiện để khởi kiện.
Như vậy, trường hợp xảy ra tranh chấp đất đai, nếu bạn muốn khởi kiện tại Tòa án thì trước tiên cần tiến hành hòa giải tại UBND xã nơi có đất tranh chấp theo trình tự, thủ tục quy định.
Do đó, việc Tòa án từ chối thụ lý đơn khởi kiện của bạn là hoàn toàn có căn cứ.
Cũng cần lưu ý, điều kiện này không áp dụng với tranh chấp liên quan đến đất đai (giao dịch mua bán đất, thừa kế quyền sử dụng đất,… ). Nói một cách dễ hiểu, với tranh chấp liên quan đến đất đai thì không bắt buộc hòa giải tại UBND xã mà bạn có thể khởi kiện luôn tại tòa án.