Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, với nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Song bên cạnh đó đất đai trở thành loại hàng hóa với giá trị tăng cao và nguồn thu lợi nhuận đáng kể. Chính vì thế, trên thực tiễn, đã xảy ra không ít trường hợp các đối tượng xấu đã lợi dụng mà trục lợi có những hành vi vi phạm đến đất đai ngày một nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
Bài viết dưới đây của Tư vấn luật đất đai sẽ làm sáng tỏ về Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai cũng như đưa ra các giải pháp khắc phục hiện trạng về vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Mời bạn đón đọc ngay nhé!
Căn cứ pháp lý
- Luật Đất đai 2013
- Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012
- Nghị định số 01/2017/NĐ-CP
- Nghị định số 62/2019/NĐ-CP
Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Tính từ khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực (ngày 01/7/2014) đến ngày 31/12/2021, các Tòa án trong cả nước đã thụ lý 187.743 vụ án liên quan đến đất đai, trong đó tranh chấp đất đai xảy ra nhiều nhất là trong lĩnh vực dân sự với 161.187 vụ, sau đó là hành chính với 26.443 vụ và hình sự là 113 vụ
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về đất đai trong lĩnh vực dân sự diễn ra đất đa dạng, như: tranh chấp về ranh giới, tranh chấp quyền sử dụng đất, chia thừa kế, tranh chấp hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác kinh doanh… Đây là nguyên nhân dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng như phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc.
Đối với các vụ hành chính, các khiếu kiện hành chính về đất đai chiếm số lượng nhiều nhất và có tính chất phức tạp nhất, chiếm trên 70% số vụ án Tòa án thụ lý, giải quyết; tập trung chủ yếu ở 07 nhóm khiếu kiện: (1) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến việc giao đất, cho thuê đất; đấu giá quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đăng ký biến động đất đai; chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định hành chính, hành vi hành chính trong thực hiện quyền của người sử dụng đất; (2) Khiếu kiện liên quan đến việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (3) Khiếu kiện liên quan đến việc thu hồi đất; (4) Khiếu kiện về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất; (5) Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính về đất đai; (6) Khiếu kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai; (7) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai.
Thực tế cho thấy, các vi phạm trong quản lý đất đai xảy ra chủ yếu ở 03 nhóm vấn đề sau:
(1) Vi phạm trong công tác khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây dựng giá đất. Tình trạng một thửa đất, một khu đất được thể hiện trên nhiều loại bản đồ, nhiều tờ bản đồ với thông tin về số thửa, diện tích, loại đất khác nhau là rất phổ biến.
(2) Vi phạm trong quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tình trạng có dự án thì điều chỉnh quy hoạch hoặc điều chỉnh quy hoạch để hợp pháp hóa việc thu hồi đất xảy ra tại một số địa phương.
(3) Vi phạm trong công tác đăng ký đất đai, cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất. Đây là nhóm vấn đề còn nhiều tồn tại, hạn chế và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khiếu kiện nhiều và ngày càng tăng.
Các khiếu kiện liên quan đến đất đai tập trung chủ yếu ở khiếu kiện về thu hồi, bồi thường; đăng ký, cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao gồm những hình thức xử phạt.
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
Các hình thức xử phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
– Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất;
b) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai từ 06 tháng đến 09 tháng hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai từ 09 tháng đến 12 tháng.
Giải pháp khắc phục thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như thế nào?
Giải pháp về mặt pháp luật
Việc nghiên cứu, tổng kết về thực tiễn vi phạm hành chính trong lĩnh vự đất đai thi hành để sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành vừa là yêu cầu thường xuyên vừa là giải pháp căn bản để giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Đất đai là nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai nhưng cũng chính là giải pháp căn bản để hạn chế, ngăn ngừa vi phạm trong quản lý đất đai, cụ thể:
– Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 về việc “Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa” để đảm bảo quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được quy định tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013.
– Sửa đổi lại việc giải thích thuật ngữ “tổ chức kinh tế” tại khoản 27 Điều 3 Luật Đất đai cho phù hợp, thống nhất với khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014.
– Sửa đổi, bổ sung Điều 106 Luật Đất đai theo hướng bổ sung thêm quy định về việc không thu hồi GCNQSDĐ trong trường hợp đã chuyển mục đích sử dụng đất.
– Sửa đổi thời gian niêm yết thông báo về việc mất GCNQSD tại điểm b khoản 2 Điều 10 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường là 30 ngày để phù hợp với quy định tại Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Nghị định số 01/2017/NĐ-CP của Chính phủ, đảm bảo sự đồng bộ giữa các văn bản.
– Sửa đổi quy định tại quy định tại khoản 4 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường liên quan đến việc nộp đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản cho phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Nghị định số 01/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
– Sửa đổi điểm a khoản 2 Điều 37 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 01/2017/NĐ-CP của Chính phủtheo hướng xác định rõ UBND cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ và UBND cấp tỉnh được ủy quyền cho Cơ quan Tài nguyên và Môi trường cùng cấp cấp GCNQSDĐ cho phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 105 Luật Đất đai năm 2013.
– Bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai nội dung “người nhận góp vốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trừ trường hợp nhận chuyển nhượng thông qua hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp”.
– Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ, doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Tại Nghị định 91/2015/NĐ-CP ngày 01/12/2015 của Chính phủ “Về đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp” quy định việc chuyển nhượng vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp phải đấu giá cổ phần theo hình thức công khai. Tuy nhiên, Nghị định 91 có đối tượng áp dụng là doanh nghiệp nhà nước, bao gồm các công ty do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Điều này có nghĩa các công ty đã cổ phần hóa và còn vốn của Nhà nước khi thoái vốn tại các doanh nghiệp thì không thuộc đối tượng áp dụng của Nghị định. Do đó, việc thoái vốn đối với các công ty còn một phần vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chỉ thực hiện theo Luật Doanh nghiệp, Điều lệ công ty, dẫn đến việc lợi dụng gây thất thoát trong quá trình thoái vốn. Vì vậy, cần xem xét, sửa đổi, bổ sung về đối tượng áp dụng tại Điều 2 Nghị định 91 và hoàn thiện các quy định pháp luật về việc thoái vốn của các tổng công ty, tập đoàn, gồm cả doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, doanh nghiệp dưới 100% vốn nhà nước và các công ty con có vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
– Bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 118 Luật đất đai theo hướng: trường hợp đất đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều này mà không có người tham gia…, thì Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất mà không phải đấu giá quyền sử dụng đất, nhưng phải trên cơ sở tham khảo giá thị trường tại thời điểm đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất. Đồng thời, đề xuất sửa đổi quy định theo hướng chỉ áp dụng hình thức không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất đối với các dự án đầu tư được miễn tiền sử dụng đất, thuê đất trong thời hạn thực hiện dự án.
– Tại điểm c khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai quy một trong những nguyên tắc định giá đất là phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường”. Tuy nhiên, quy định pháp luật về định giá đất còn nhiều bất cập, chưa phù hợp thực tế, khung giá đất của Nhà nước thường chỉ bằng khoảng 20% giá đất thị trường, toàn bộ quy trình định giá đất đều do cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện. Tại Điều 115, Điều 116 Luật Đất đai quy định về tư vấn giá đất nhưng chưa có quy định để bảo đảm cho tổ chức tư vấn giá đất thực sự có vị trí độc lập, khách quan. Vì vậy, đề nghị bổ sung một điều luật quy định về cơ chế bảo đảm và cơ chế giám sát đối với tổ chức tư vấn giá đất.
– Tại khoản 4 Điều 29 Nghị định 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ “Về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần” quy định một trong các căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp là “giá trị quyền sử dụng đất được giao, tiền thuê đất xác định lại và giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp”. Điều 31 Nghị định 126 quy định cụ thể về giá trị lợi thế của doanh nghiệp nhưng chưa quy định về xác định giá trị lợi thế vị trí đất theo giá thị trường để thu về cho Nhà nước nên dẫn đến việc giá trị lợi thế về đất thay vì trả cho Nhà nước thì lại được chuyển cho doanh nghiệp. Mặc dù, các doanh nghiệp không có quyền chuyển nhượng đất nhưng vẫn có quyền lựa chọn hình thức liên doanh, hợp tác đầu tư thông qua góp vốn giá trị lợi thế quyền thuê đất. Vì vậy, cần bổ sung quy định tại Điều 31 của Nghị định 126 về phương pháp tính giá trị lợi thế đất theo giá trị thị trường, tính đầy đủ giá trị lợi thế (vị trí đất) vào giá trị khi cổ phần hóa doanh nghiệp.
– Sửa đổi các quy định trong Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn theo hướng quy định đầy đủ hơn nữa bảo đảm tính công khai, minh bạch của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất. Việc giải phóng mặt bằng phải có sự tham gia của cả người dân, doanh nghiệp và nhà nước; việc giải phóng mặt bằng.
– Luật hóa về cơ chế kiểm tra, giám sát toàn diện, hiệu quả liên quan đến tài sản Nhà nước khi tiến hành cổ phần hóa, thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề xác định đúng và đầy đủ giá trị tài sản doanh nghiệp mà trong đó có đất đai là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi tiến hành cổ phần hóa, thoái vốn các Doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy, cần nghiên cứu xây dựng thêm cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân trong công tác này, việc bảo đảm tính công khai, mình bạch trong việc thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn cũng như sự kiểm tra, giám sát của công dân cùng các cơ quan nhà nước sẽ góp phần khắc phục các lỗ hổng trong cơ chế quản lý công tác cổ phần hóa, thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước như hiện nay.
Giải pháp về tổ chức thi hành pháp luật
– Cần nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức tham mưu, giúp việc cho ủy ban nhân dân, trước hết và chủ yếu là cấp xã, phường, thị trấn về công tác quản lý đất đai. Đây là giải pháp căn bản, quan trọng vì đất đai thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của chính quyền cấp xã, mọi thủ tục hành chính về đất đai đều bắt đầu từ cấp xã, giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, trước hết cũng bắt đầu từ cấp xã và thực tế cũng cho thấy vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai trước hết và chủ yếu là ở cấp xã. Nếu năng lực của đội ngũ công chức địa chính được nâng lên thì công tác thống kê, đăng ký đất đai sẽ tốt hơn, hồ sơ địa chính sẽ đầy đủ và chuẩn hơn.
– Triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp để xử lý dứt điểm các dự án chậm tiện độ và tăng cường sự công khai, minh bạch trong việc giao đất, cho thuê đất. Về mặt pháp luật, cần tiếp tục xây dựng các chế tài xử lý thật mạnh đối với các dự án chậm tiến độ, đảm bảo khi chủ đầu tư khi đã nhận dự án mà không đủ năng lực thực hiện thì phải hoàn trả đất cho Nhà nước hoặc làm thủ tục chuyển cho chủ đầu tư khác có đủ năng lực, đảm bảo triển khai có hiệu quả các dự án. Bên cạnh đó, cần hoàn chỉnh cơ chế nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các dự án đầu tư, cần cụ thể hóa các tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư tham gia đấu giá đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất, hoàn thiện các quy định cụ thể về quy trình tiếp cận đất đai của dự án đầu tư, khi nào thì đấu giá đất và khi nào thì đấu thầu dự án có sử dụng đất đảm bảo nguyên tắc 05 công khai khi đấu giá đất và đấu thầu dự án
– Tăng cường đầu tư, xây dựng, quản lý, vận hành Hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia đảm bảo tính liên thông, hiệu quả. Triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai Quốc gia là chủ trương hoàn toàn đúng và cần thiết, góp phần tạo sự minh bạch, tránh rủi ro về mặt pháp lý, giúp các giao dịch về đất đai trở nên mịnh bạch, các cơ quan nhà nước thuận tiện trong công tác quản lý và các nhà đầu tư yên tâm trong việc đầu tư. Để hệ thống cơ sở dữ liệu này đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả của mình, chúng tôi kiến nghị cần tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai Quốc gia đồng bộ, liên quan và xây dựng hệ thống hành lang pháp lý đầy đủ trong việc xây dựng, quản lý, cập nhật, tra cứu thông tin từ hệ thống cơ sở dữ liệu này.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của tư vấn luật Đất đai về vấn đề “Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai“. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Nếu quý khách có nhu cầu Tư vấn đặt cọc đất, Bồi thường thu hồi đất, Đổi tên sổ đỏ, Làm sổ đỏ, Tách sổ đỏ, Giải quyết tranh chấp đất đai, tư vấn luật đất đai…, mời quý khách hàng liên hệ đến hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm:
- Không canh tác đất trồng lúa hơn 01 năm thì có bị thu hồi không?
- Mức giá thu hồi đất năm 2022 là bao nhiêu?
- Hướng dẫn thủ tục đặt cọc mua bán nhà đất nhanh chóng
Câu hỏi thường gặp
Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định: Người sử dụng đất được chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất khi có đủ các điều kiện sau: Có Giấy chứng nhận; Đất không có tranh chấp; Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; Trong thời hạn sử dụng đất.
Theo khoản 3 Điều 18 Nghị định 91/2019, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp bằng quyền sử dụng đất khi không đủ điều kiện bị phạt tiền 40 triệu đồng. Mức phạt trên đây áp dụng đối với cá nhân, mức phạt đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Theo khoản 1 Điều 32 Nghị định 91/2019, hành vi không sử dụng đất trồng cây hàng năm trong thời hạn 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm trong thời hạn 18 tháng liên tục, đất trồng rừng trong thời hạn 24 tháng liên tục mà không thuộc trường hợp bất khả kháng bị thì xử phạt 20 triệu đồng.
Mức phạt trên đây áp dụng đối với cá nhân, mức phạt đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Biện pháp khắc phục với hành vi này, buộc sử dụng đất theo mục đích được Nhà nuớc giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất; trường hợp đã bị xử phạt mà không đưa đất vào sử dụng thì sẽ bị Nhà nước thu hồi.
Ngoài xử phạt hành chính, người có hành vi hủy hoại đất còn có thể bị xử lý hình sự theo Điều 228 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
Cụ thể, người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Hoặc san lấp đất có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; tái phạm nguy hiểm; người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Theo quy định tại Điều 35 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, vi phạm quy định về giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất bị xử phạt như sau:
+Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất mà không thuộc các trường hợp quy định dưới đây.
+ Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với trường hợp khai báo không trung thực việc sử dụng đất hoặc tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận và việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất bị sai lệch mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với trường hợp sử dụng giấy tờ giả trong thực hiện thủ tục hành chính và các công việc khác liên quan đến đất đai mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong các trường hợp quy định nêu trên.
– Biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Buộc nộp Giấy chứng nhận đã cấp và thực hiện lại thủ tục hành chính về đất đai theo quy định đối với các trường hợp quy định nêu trên;
+ Hủy bỏ kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai đã thực hiện theo quy định đối với trường hợp này.