Bố mẹ bán nhà con có được hưởng không?

22/11/2022 | 13:53 989 lượt xem Thanh Loan

Khi hộ gia đình được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các thành viên hộ gia đình sẽ có quyền sử dụng đất ngang nhau nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định. Có nhiều trường hợp bố mẹ bán nhà nhưng con cái trong gia đình không đồng ý việc bán nhà và có trường hợp đòi chia phần khi bố mẹ bán nhà. Trường hợp bố mẹ bán nhà con có được hưởng không? Theo quy định hiện nay, nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên bố mẹ thì nếu bố mẹ cho thì con cái sẽ có quyền hưởng. để hiểu rõ vấn đề này mới bạn đọc tham khảo bài viết của Tư vấn Luật đất đai.

Nguyên tắc xác lập quyền tài sản và thực hiện quyền tài sản

Theo quy định của Bộ luật dân sự, nguyên tắc xác lập được quy định tại Điều 160 như sau:

Quyền tài sản và các quyền tài sản khác được xác lập và thực hiện trong khuôn khổ Bộ luật này hoặc luật khác và các quy định có liên quan.

Các quyền sở hữu khác vẫn tồn tại trong bất kỳ quá trình chuyển giao quyền sở hữu nào, trừ khi có quy định khác trong Bộ luật này hoặc các luật khác có liên quan.

Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của pháp luật, gây thiệt hại, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Chủ sở hữu quyền tài sản khác được thực hiện mọi hành vi trong phạm vi quyền của mình quy định tại Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan nhưng không được gây thiệt hại, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu hoặc khác.

Bố mẹ bán nhà có cần chữ ký của con hay không?

Bán đất là cách gọi dân gian, theo luật đất đai 2013 và các văn bản chính sách thì bán đất mang tên pháp lý là chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Nghị định số 43/2014 / NĐCP, hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản liền kề phải do người được chỉ định ký trên giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền ký phù hợp với quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, người đứng tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền chỉ được chuyển nhượng khi có sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất.

Khoản 5 Điều 14 Thông tư 02/2015 / TTBTNMT nêu rõ:

“Người đứng tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự quy định tại khoản 1 Điều 64 Nghị định 43/2014/ NĐCP được Chỉ ký hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản trên đất khi đã được sự đồng ý của các thành viên hộ gia đình sử dụng đất. các văn bản, tài liệu này đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. »

Như vậy, khi cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình đang sử dụng đất thì cha mẹ chỉ được chuyển nhượng nếu được các thành viên khác có cùng quyền sử dụng đất đồng ý bằng văn bản có công chứng, chứng thực.

Lưu ý: Mặc dù giấy chứng nhận được cấp cho hộ gia đình nhưng không có nghĩa là tất cả các thành viên trong hộ gia đình đều có quyền sử dụng, chuyển nhượng, tặng cho đất. Quyền sử dụng đất chỉ được chia khi có đủ các điều kiện, cụ thể:

Khoản 29 Mục 3 Luật Đất đai 2013 quy định:

“Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống. Luật Hôn nhân và Gia đình, chung sống và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm giao đất, cho thuê đất hoặc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

Như vậy, các thành viên trong hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất nếu có đủ các điều kiện sau đây:

Có quan hệ hôn nhân, vợ chồng, nuôi dưỡng (cha nuôi với con nuôi) .

Chung sống tại thời điểm được nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (nếu con sinh ra sau ngày được cấp giấy chứng nhận thì không có chung đất quyền sử dụng.).

Quyền sử dụng đất chung.

Con trai trưởng không đồng ý bố mẹ có được bán nhà?

Theo quy định của Điều 194 Bộ luật Dân sự 2015 về quyền định đoạt của chủ sở hữu, chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.

Điều 195 Bộ luật này quy định người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật.

Với các quy định nói trên, các con của bố mẹ bạn không có quyền sở hữu đối với căn nhà và cũng không thuộc diện được ủy quyền nên không có quyền định đoạt ngôi nhà.

Do vậy, khi chuyển nhượng, bố mẹ bán nhà không cần phải hỏi ý kiến của các con. Việc các con không đồng ý bán nhà (nếu có) không phải là yếu tố để hạn chế quyền định đoạt của bố mẹ bạn.

Trừ trường hợp bố mẹ bạn để lại di chúc và di chúc được xác định hợp pháp thì di sản thừa kế sẽ được chia theo di chúc. Các trường hợp khác di sản sẽ được chia theo pháp luật. Khi đó, những người ở cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. 

Bố mẹ bán nhà con có được hưởng không?
Bố mẹ bán nhà con có được hưởng không?

Bố mẹ bán nhà con có được hưởng không?

Trường hợp 1: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà mang tên bố mẹ bạn.

Ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của bố mẹ bạn nên bố mẹ bạn có các quyền của chủ sở hữu nhà ở gồm: chiếm hữu đối với nhà ở; sử dụng nhà ở; bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, để thừa kế, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ quyền quản lý, thế chấp nhà ở thuộc sở hữu của mình theo quy định của pháp luật; bảo trì, cải tạo, …

Tại Điều 164 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định về quyền sở hữu như sau:

“ 1. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

2. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.

Trường hợp 2: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà mang tên “hộ ông/bà” (hộ gia đình).

Khi này ngôi nhà sẽ thuộc tài sản sở hữu chung của hộ gia đình bố mẹ bạn, gồm tất cả những thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở thì các quyền sở hữu như: mua, bán, tặng, cho, … phải được sự đồng ý của những người đồng sở hữu thì mới được thực hiện giao dịch. Trường hợp có thành viên chưa thành niên, hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì cần có sự đồng ý của người giám hộ theo quy định tại khoản 3 Điều 68 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Tại Điều 109 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình:

“ 1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.

2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”.

Mời bạn xem thêm:

Thông tin liên hệ

Trên đây là các thông tin của Tư vấn luật đất đai về “Bố mẹ bán nhà con có được hưởng không?” theo pháp luật hiện hành. Ngoài ra nếu bạn đọc quan tâm tới vấn đề như tư vấn về giá đất bồi thường khi thu hồi đất theo quy định thì có thể tham khảo và liên hệ tới Tư vấn luật đất đai để được tư vấn, tháo gỡ những khúc mắc một cách nhanh chóng.

Liên hệ hotline: 0833.101.102

Câu hỏi thường gặp

Trường hợp nào bố mẹ bán nhà, bán đất mà không có chữ ký của con?

Ngoài trường hợp giao đất cho các hộ gia đình nêu tại khoản 1, các trường hợp khác, cha mẹ bán đất mà không có chữ ký của con cái, đó là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
Trong trường hợp sở hữu chung thì việc bán đất do cha mẹ thỏa thuận, không phải do con cái ký (Khoản 1 Điều 33, Khoản 1 Điều 35 Luật hôn nhân và gia đình 2014).

Nếu một mình bố mẹ bán nhà thì con cái có được khởi kiện?

Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của hộ gia đình mà khi cha mẹ bán nhà mà không được sự đồng ý của con cái thì con cái có quyền gửi đơn khiếu nại yêu cầu: yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tòa sẽ xem xét nếu yêu cầu đúng thì tòa sẽ tuyên hợp đồng vô hiệu và các bên trong hợp đồng sẽ trả lại những gì đã nhận.
Nếu nhà ở thuộc tài sản riêng của vợ chồng hoặc tài sản chung của vợ chồng thì việc xác lập giao dịch là quyền của cha mẹ, không cần sự đồng ý của con cái và con cái không có quyền ngăn cản.