Rủi ro cho thuê nhà không có hợp đồng

28/09/2022 | 11:51 3 lượt xem Hoàng Yến

Dạ thưa Luật sư, tôi có thuê một căn nhà từ một người quen nên chúng tôi không làm hợp đồng cho thuê nhà. Trường hợp cho thuê nhà không có hợp đồng về quyền lợi của tôi có bị ảnh hưởng không ạ? Xin Luật sư giải đáp giúp tôi ạ.
Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng dịch vụ tư vấn pháp luật và gửi câu hỏi về Tư vấn luật Đất đai. Trường hợp của bạn sẽ được chúng tôi giải đáp thông qua bài viết dưới đây nhằm giúp bạn hiểu rõ hơn quy định pháp luật về cho thuê nhà cũng như làm rõ vấn đề Cho thuê nhà không hợp đồng. Mời bạn đón đọc ngay nhé!

Căn cứ pháp lý

  • Luật Nhà ở năm 2014
  • Bộ luật Dân sự 2015
  • Luật Cư trú năm 2020

Hợp đồng thuê nhà là gì?

Hợp đồng thuê nhà ở là Hợp đồng dân sự, theo đó, bên cho thuê nhà có nghĩa vụ giao nhà cho bên thuê nhà sử dụng trong thời hạn thỏa thuận và bên thuê nhà có nghĩa vụ trả tiền thuê nhà theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Hợp đồng thuê nhà phải được lập thành văn bản, nếu thời gian thuê từ 6 tháng trở lên phải có công chứng hoặc chứng thực và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Giá thuê nhà ở do các bên thỏa thuận, trường hợp pháp luật có quy định về khung giá thuê nhà ở thì giá thuê không được vượt khung.


Đặc điểm của hợp đồng thuê nhà

– Hợp đồng thuê nhà là hợp đồng có đền bù. Trong đó, một bên nhận được lợi ích từ bên kia chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương ứng.

– Hợp đồng thuê nhà là hợp đồng song vụ.Theo đó, hợp đồng sẽ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. Tương ứng với quyền của bên cho thuê là nghĩa vụ của bên thuê và ngược lại, tương ứng với quyền của bên thuê là nghĩa vụ của bên cho thuê nhà

– Hợp đồng thuê nhà là hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng tài sản. Bên thuê có quyền sử dụng nhà cho thuê trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Rủi ro cho thuê nhà không có hợp đồng

Khó đòi lại tiền đặt cọc

Khi thuê nhà, các bên thường sẽ thực hiện đặt cọc một khoản tiền để tạo niềm tin cho việc đảm bảo thực hiện việc thuê trọ. Theo đó, khi thuê nhà, các bên có lập hợp đồng đặt cọc hoặc có nội dung đặt cọc trong hợp đồng thuê nhà, căn cứ khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự, việc xử lý số tiền đặt cọc sẽ thực hiện như sau:

– Nếu các bên thực hiện việc thuê nhà: Tiền cọc sẽ trả lại cho bên thuê hoặc được trừ vào tiền thuê nhà.

– Bên thuê không thực hiện thuê nhà: Tiền cọc sẽ thuộc về bên cho thuê nhà.

– Bên cho thuê từ chối không cho thuê nhà: Bên cho thuê phải trả cho bên thuê tiền đặt cọc và một khoản tiền tương đương số tiền đặt cọc.

Lưu ý: Nếu các bên có thoả thuận khác thì thực hiện theo thoả thuận đó.

Như vậy, khi không lập hợp đồng thuê nhà hoặc hợp đồng đặt cọc, để chứng minh các bên thuê nhà có thoả thuận về việc đặt cọc và xử lý số tiền đặt cọc trên thực tế là rất khó trừ trường hợp có các bằng chứng, chứng cứ khác như ghi âm, ghi hình… thể hiện nội dung này.

Không đòi được bồi thường nếu chủ nhà vi phạm

Tương tự như khi đặt cọc, nếu hợp đồng thuê nhà có điều khoản quy định về việc bồi thường thiệt hại thì khi một trong hai bên không thực hiện theo thoả thuận nêu trong hợp đồng thì bên còn lại có thể đòi bồi thường theo quy định tại khoản 4 Điều 428 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

Bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.

Đồng thời, theo Điều 132 Luật Nhà ở năm 2014, trong thời hạn thuê nhà nêu tại hợp đồng, bên cho thuê không được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà, thu hồi nhà ở đang cho thuê trừ trường hợp:

– Bên thuê không trả tiền thuê nhà từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng.

– Bên thuê không dùng nhà ở đúng mục đích như thoả thuận trong hợp đồng.

– Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê…

Có thể thấy, hợp đồng thuê nhà chính là cơ sở để các bên thực hiện việc đòi bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại thực tế xảy ra. Nếu không có hợp đồng thuê nhà, các bên cũng như cơ quan có thẩm quyền sẽ rất khó để xác định cụ thể thoả thuận của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng thuê nhà về việc đòi bồi thường thiệt hại.

Có thể bị chủ nhà đòi lại nhà cho thuê trước hạn

Theo Điều 121 Luật Nhà ở năm 2014, hợp đồng thuê nhà phải lập thành văn bản và gồm các nội dung về thời hạn, phương thức thanh toán tiền, quyền, nghĩa vụ của các bên, cam kết của các bên…

Căn cứ hợp đồng thuê nhà, các bên sẽ xác định được thời hạn thuê nhà. Qua đó, sẽ có cơ sở đòi bồi thường nếu một trong hai bên vi phạm về thời hạn thuê nhà, đòi lại nhà trước thời hạn bởi theo Điều 132 Luật Nhà ở 2014, chỉ có một số trường hợp nhất định, chủ nhà mới được quyền thu hồi nhà đang cho thuê như:

– Bên thuê không trả tiền thuê đúng hạn từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng.

– Bên thuê dùng nhà thuê vào mục đích không đúng theo thoả thuận tại hợp đồng.

– Bên thuê tự ý cơi nới, phá dỡ nhà thuê…

Đồng thời, nếu các bên lập hợp đồng thuê nhà còn có cơ sở để yêu cầu bên vi phạm hợp đồng (đòi lại nhà trước hạn) bồi thường thiệt hại hoặc căn cứ để khởi kiện đòi quyền lợi hợp pháp của mình.

Chủ nhà có thể tự ý tăng giá thuê

Như phân tích ở trên, trong hợp đồng thuê nhà sẽ có nội dung về giá thuê, phương thức thanh toán, thời hạn thuê nhà… cũng như việc áp dụng giá thuê nhà trong thời hạn thuê nhà theo thoả thuận của các bên.

Đồng nghĩa, khi các bên ký hợp đồng, trong hợp đồng thuê nhà sẽ có các điều khoản liên quan đến tiền thuê nhà, việc tăng, giảm giá thuê nhà trong thời gian thuê như có thể áp dụng xuyên suốt trong cả thời gian thuê cũng như việc điều chỉnh giá thuê nhà…

Những quy định này đều là sự thoả thuận của các bên do đó trong quá trình thuê, khi có hợp đồng, các bên chỉ cần thực hiện theo những gì đã thoả thuận. Qua đó, sẽ không phát sinh những hành vi có thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.

Không được đăng ký thường trú

Điều 20 Luật Cư trú năm 2020 quy định các trường hợp được đăng ký thường trú tại nhà thuê trọ nếu được chủ nhà trọ đồng ý cho đăng ký thường trú và diện tích nhà trọ đảm bảo không thấp hơn 08 m2 sàn/người.

Đồng thời, theo khoản 3 Điều 21, Điều 22 Luật Cư trú này, khi đăng ký thường trú tại nhà thuê, người thuê cần chuẩn bị các giấy tờ:

– Tờ khai thay đổi thông tin cư trú có ý kiến đồng ý của chủ trọ.

– Hợp đồng thuê nhà đã được công chứng, chứng thực.

– Giấy tờ, tài liệu liên quan để chứng minh đủ điều kiện về diện tích.

Theo quy định này, có thể thấy, khi đăng ký thường trú tại chỗ trọ cần phải có hợp đồng thuê nhà. Do đó, nếu các bên không ký hợp đồng khi thuê trọ, người thuê có thể sẽ mất cơ hội được đăng ký thường trú tại nhà trọ.

Cho thuê nhà không có hợp đồng
Cho thuê nhà không có hợp đồng

Thông tin liên hệ

Trên đây là tư vấn của tư vấn luật Đất đai về vấn đề Cho thuê nhà không có hợp đồng” Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.

Nếu quý khách có nhu cầu Tư vấn đặt cọc đất, Mức bồi thường thu hồi đất, Đổi tên sổ đỏ, Làm sổ đỏ, Tách sổ đỏ, chuyển đất ao sang đất sổ đỏ, Giải quyết tranh chấp đất đai, tư vấn luật đất đai,tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, tra cứu quy hoạch đất, giá đất đền bù giải tỏa, chia nhà đất sau ly hôn…, mời quý khách hàng liên hệ đến hotline: 0833.102.102.

Mời bạn xem thêm:

Câu hỏi thường gặp

Hợp đồng thuê nhà có phải công chứng, chứng thực?

Theo khoản 2 Điều 122 Luật Nhà ở 2014 quy định, trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; mua bán, cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức; cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở thì không bắt buộc phải công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có nhu cầu.
Như vậy, hợp đồng cho thuê nhà ở phải được lập thành văn bản nhưng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực, trừ trường hợp có yêu cầu từ các bên của hợp đồng. Tuy nhiên khuyến khích cá nhân, tổ chức khi thuê nhà chứng thực, công chứng hợp đồng thuê nhà để có thể đảm bảo quyền lợi của các bên trong quá trình thuê nhà. 

Hợp đồng thuê nhà bằng giấy viết tay có hiệu lực không?

Tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực như sau:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015 còn quy định trường hợp giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định này.
Đối với trường hợp giao dịch về nhà ở (cho thuê nhà ở), khoản 2 Điều 122 Luật Nhà ở 2014 quy định về việc công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở như sau:
“2. Đối với trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; mua bán, cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức; cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở thì không bắt buộc phải công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có nhu cầu.
Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là do các bên thỏa thuận; trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm ký kết hợp đồng”.
Như vậy, theo quy định trên, không bắt buộc các bên khi thuê nhà ở phải tiến hành công chứng, chứng thực hợp đồng thuê nhà nếu các bên không có nhu cầu. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận là thời điểm các bên ký kết hợp đồng.
Do đó, trường hợp khi làm hợp đồng thuê nhà, nếu bạn và bên cho thuê không có thoả thuận về việc công chứng hợp đồng thì hợp đồng sẽ không bắt buộc phải công chứng. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác định theo thỏa thuận hoặc thời điểm ký kết.