Quy định về thẩm quyền cho thuê đất của UBND cấp xã

14/04/2023 | 10:04 40 lượt xem Vân Anh

Thuê đất là hình thức cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho các cá nhân, tổ chức sử dụng đất phải trả tiền thuê đất trong khoảng thời gian nhất định. Ủy ban nhân dân cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong công tác quản lý đất đai trên địa bàn cấp xã. Do đó, Uỷ ban nhân dân cấp xã có quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của mình trong việc quản lý đất đai. Vậy Quy định về thẩm quyền cho thuê đất của UBND cấp xã như thế nào? hãy cùng Tư vấn luật đất đai tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé

Thẩm quyền cho thuê đất được quy định như thế nào?

Căn cứ vào quy định tại Điều 59 Luật Đất đai 2013 quy định về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất như sau:

“Điều 59. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức;

b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo;

c) Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật này;

d) Cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 56 của Luật này;

đ) Cho thuê đất đối với tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi quyết định;

b) Giao đất đối với cộng đồng dân cư.

3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được ủy quyền.”

Thẩm quyền cho thuê đất của UBND cấp xã

3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

Căn cứ vào quy định nêu trên thì UBND cấp xã chỉ có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã. UBND cấp xã chỉ được cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất này (phần chưa được sử dụng cho các mục đích quy định tại khoản 2 Điều 132 Luật đất đai 2013) để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hình thức đấu giá để cho thuê.

Quy định về thẩm quyền cho thuê đất của UBND cấp xã

UBND cấp xã cho thuê đất không đúng thẩm quyền thì xử lý ra sao?

Căn cứ vào quy định đã nêu trên, thì trường hợp UBND cấp xã giao đất cho thuê đất không đúng thẩm quyền thì đất này sẽ bị thu hồi theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai 2013.

Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã giao không đúng thẩm quyền giao đất, cho thuê đất được hướng dẫn bởi Điều 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP như sau:

“Điều 23. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đã được giao không đúng thẩm quyền

  1. Đất giao không đúng thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại Điều này bao gồm các trường hợp người đứng đầu điểm dân cư giao đất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai qua các thời kỳ; tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng nhưng đã tự phân phối, bố trí cho cán bộ, công nhân viên, xã viên để sử dụng làm nhà ở và các mục đích khác.
  2. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất đã được giao theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này.
  3. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định này.
    Trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở hoặc công trình xây dựng khác thì diện tích còn lại không có nhà ở, công trình xây dựng được xác định là đất nông nghiệp theo hiện trạng đang sử dụng, nếu người sử dụng đất đề nghị được chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì phải làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất.
  4. Người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
  5. Nhà nước không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và thu hồi toàn bộ diện tích đất đã giao, cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 trở về sau.
    Như vậy, trường hợp trên UBND xã cho doanh nghiệp thuê vào năm 2018 tức là thuộc vào khoản 5 Điều 23 nêu trên.

Như vậy, Nhà nước không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và thu hồi toàn bộ diện tích đất đã giao, cho thuê không đúng thẩm quyền.

Thông tin liên hệ

Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Quy định về thẩm quyền cho thuê đất của UBND cấp xã ”. Mong rằng bài viết cùng những ý kiến tư vấn nêu trên sẽ giúp ích cho những quý khách hàng đang có dự định mua đất.  Tư vấn luật đất đai với đội ngũ luật sư dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ mang đến các dịch vụ pháp lý như Chuyển đất nông nghiệp sang đất sổ đỏ… Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 0833.102.102 Tư vấn luật đất đai luôn sẵn sàng lắng nghe những thắc mắc của quý khách hàng.

Câu hỏi thường gặp

Trường hợp Nhà nước ra quyết định thu hồi đất do cho thuê đất sai thẩm quyền thì có phải bồi thường không?

Căn cứ vào Điều 82 Luật Đất đai 2013 quy định về trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất như sau:
“Điều 82. Trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất
Nhà nước thu hồi đất không bồi thường về đất trong các trường hợp sau đây:
Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 76 của Luật này;
Đất được Nhà nước giao để quản lý;
Đất thu hồi trong các trường hợp quy định tại Điều 64 và các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 của Luật này;
Trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này.”
Như vậy, trong trường hợp trên đã thuộc vào trường hợp tại khoản 3 Điều 82 nêu trên nên mảnh đất cho thuê không đúng thẩm quyền đó sẽ được thu hồi đất và không được bồi thường về đất.

UBND cấp xã cho thuê đất như thế nào?

Về cơ bản, trình tự thực hiện như sau:
– Hộ gia đình/cá nhân liên hệ với UBND cấp xã để nộp hồ sơ xin đấu giá quyền thuê đất. Hồ sơ gồm: (1) đơn xin thuê đất; (2) chứng minh nhân dân/hộ khẩu thường trú (bản sao chứng thực); (3) dự án/phương án sử dụng đất (nếu có).
– Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, tổ chức đấu giá nhận thầu;
– Hộ gia đình/cá nhân trực tiếp tham gia đấu giá;
– Kết quả trúng đấu giá, nhận thầu sử dụng đất sẽ được bổ sung vào hồ sơ thuê đất và là cơ sở để lập và ký hợp đồng thuê đất.
Tuy nhiên căn cứ vào Khoản 1 Điều 132 Luật Đất đai năm 2013 thì “Đối với những nơi đã để lại quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích vượt quá 5% thì diện tích ngoài mức 5% được sử dụng để xây dựng hoặc bồi thường khi sử dụng đất khác để xây dựng các công trình công cộng của địa phương; giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản tại địa phương chưa được giao đất hoặc thiếu đất sản xuất.”