Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai mới 2023

23/08/2023 | 15:11 21 lượt xem Thanh Thùy

Chào Luật sư, tôi là dân miền núi nên việc học hành vẫn còn hạn chế. Không biết việc quản lý đất đai được quy định ra sao? Trước đây ở bản tôi có chính sách giao đất cho người dân canh tác miễn phí để tạo điều kiện phát triển kinh tế. Tuy nhiên tôi thấy ở chỗ tôi chia không công bằng. Có người thì được chia nhiều còn có người nghèo hơn lại không có đất canh tác. Tôi muốn hỏi một số Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai thế nào? Những hành vi vi phạm quy định quản lý đất đai thế nào? Rất mong nhận được sự tư vấn từ Luật sư. Tôi cảm ơn Luật sư.

Cảm ơn bạn đã tin tưởng dịch vụ tư vấn luật đất đai của chúng tôi. Chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:

Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 

Hiện nay việc tuân thủ quy định về pháp luật đất đai vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Vẫn còn tình trạng mọi người vi phạm quy định về sử dụng đất đai. Cụ thể như sau:

Căn cứ theo Điều 228 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

– Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Có tổ chức;

+ Phạm tội 02 lần trở lên;

+ Tái phạm nguy hiểm.

– Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là gì?

Hiện nay quy định về đất đai có sự quản lý từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo luật đặt ra. Bộ luật hình sự hiện hành cũng đã quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Cụ thể như sau:

Căn cứ theo Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

– Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;

+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Có tổ chức;

+ Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2);

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

+ Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên;

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.

– Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai thế nào?

Hiện nay chúng ta có thể tham khảo nhiều bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai. Sau đây là ví dụ một Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai mà chúng tôi muốn bạn đọc tiếp cận như sau:

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BATỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI

Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2021/TLST-HS, ngày 25 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo;

Họ và tên: Hà Văn H – Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1988 tại xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ Tên gọi khác: Không Nơi cư trú: Khu Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ học vấn; lớp 95/12 Dân tộc; Kinh. Giới tính; Nam. Tôn giáo; không. Quốc tịch; Việt Nam Con ông Hà Văn Ngh và bà Cao Thị N Có vợ là Nguyễn Thị S. Có 01 con sinh năm 2013 Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 15/5/2021, UBND xã Đ, huyện T xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, hình thức xử phạt tiền 5.000.000đ. Đã nộp phạt ngày 17/5/2021.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/6/2021 đến ngày 08/8/2021. Hiện tại ngoại ( mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa v liên quan :

– UBND xã Đ, huyện T do ông Hà Hồng Th – Chức vụ: Chủ tịch UBND xã đại diện (vắng mặt).

– Anh Lê Mạnh H: Sinh năm 1989 Nơi cư trú ; Khu Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ông Cao Xuân H và ông Cao Xuân A, đều trú tại khu 4 xã Đ, huyện T đã sử dụng 02 thửa đất là; ông A thửa số 463-2 diện tích 79,0 m2 và ông H thửa số 463-3 diện tích 68,0 m2 tại tờ bản đồ số 10, sử dụng ổn định từ năm 1980, hai thửa đất này giáp nhau, đều ở khu vực xứ Đ thuộc khu Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ và có mục đích sử dụng đất là đất trồng cây hàng năm khác. Do diện tích nhỏ nên hai ông không thiết lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), cho đến khoảng tháng 4/2021 thì cả hai ông chuyển nhượng 02 thửa đất trên cho Hà Vãn H ở khu Đ, xã Đ, huyện T. Cụ thể; thửa đất số 463-2 ông Cao Xuân A chuyển nhượng với giá tiền 5.000.000đ và thửa đất số 463-3, ông Cao Xuân H chuyển nhượng với giá tiền 7.000.000đ. Khi chuyển nhượng không lập hợp đồng bằng văn bản mà chỉ giao dịch miệng với nhau, cũng không được cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Sau khi nhận đất, dù biết rõ mục đích sử dụng của 02 thửa đất trên là đất trồng cây hàng năm khác nhưng Hà Văn H vẫn có ý định xây một ngôi nhà để ở, trông coi vật nuôi và chứa thức ăn chăn nuôi gia súc tại 02 thửa đất này. Vì vậy, đến ngày 14/5/2021 H đã tập kết nguyên vật liệu xây dựng, công cụ, phương tiện để xây dựng tại 02 thửa đất trên. Sau đó, H thuê anh Lê Mạnh H, anh Hán Trọng K, anh Lê Xuân T và anh Lê Quang V đều trú tại xã Đ, huyện T đến đào móng và xây dựng theo sự chỉ đạo của H.

Vào hồi 15 giờ 50 phút ngày 14/5/2021, Ủy ban nhân dân (UBND) xã Đ, huyện T tiến hành kiểm tra tại xứ Đ thuộc khu Đ, xã Đ, huyện T phát hiện Hà Văn H đã tập kết vật liệu và đang tiến hành xây dựng tại thửa đất số 463-2 và thửa đất số 463-3 tờ bản đồ số 10. Cụ thể đã xây dựng: Đoạn 02 đoạn tường bằng gạch chỉ; đoạn 01 dài 8m, rộng 0,3m, cao 0,6m; đoạn 2 dài 5,2 m, rộng 0,3 m, cao 0,25 m. Quá trình kiểm tra, UBND xã Đ xác định Hà Văn H đã có hành vi tự ý chuyển từ đất trồng cây hàng năm khác sang đất phi nông nghiệp tại 02 thửa đất trên mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép, vi phạm quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 11, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, diện tích vi phạm là 41,6 m2 và lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi của Hà Văn H. Đến ngày 15/5/2021, UBND xã Đ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 53/QĐUBND đối với Hà Văn H về hành vi vi phạm nêu trên. Hình thức xử phạt hành chính; phạt tiền mức phạt 5.000.000đ; biện pháp khắc phục hậu quả phải tự tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái phép, tự khôi phục tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Tuy nhiên, sau bị xử phạt vi phạm hành chính, thì Hà Văn H chỉ chấp hành nộp phạt số tiền 5.000.000đ vào ngày 17/05/2021 nhưng không thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả mà Hà Văn H yêu cầu thợ tiếp tục xây dựng nhà tại 02 thửa đất số 463-2 và 463-3 tờ bản đồ số 10. Dưới sự chỉ đạo của H, thợ vẫn tiếp tục xây dựng liên tiếp trong các ngày gồm ngày 16, 17, 18 và 19 tháng 5 năm 2021. Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 20/5/2021, tổ công tác Công an huyện Thanh Ba phối hợp phòng Tài nguyên & Môi trường huyện Thanh Ba và UBND xã Đ, huyện T tiến hành kiểm tra tại xứ Đ thuộc khu Đ, xã Đ, huyện T phát hiện Hà Văn H tiếp tục thực hiện hành vi chuyển đất trồng cây hàng năm khác sang đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép tại 02 thửa đất nêu trên nên đã tiến hành lập Biên bản kiểm tra theo quy định.

Ngày 20/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Ba đã tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ việc vi phạm như nêu trên. Kết quả khám nghiệm hiện trường cụ thể như sau:

Công trình đang xây dựng dạng nhà hình chữ nhật, kích thước đã xây dựng:

– Phần móng: Phía Đông xây trên thửa đất số 463-3 gồm 03 tầng gạch; tầng gạch dưới cùng dài 7.9 m, rộng 0.5 m, cao 0.07 m; tầng gạch thứ hai trên tầng gạch thứ nhất dài 7.84 m, rộng 0.4 m, cao 0.12 m; tầng gạch thứ ba trên tầng gạch thứ hai dài 7.84 m, rộng 0.2 m, cao 1.9 m. Phía Tây xây trên thửa đất số 463-2 gồm 02 tầng gạch; tầng gạch phía dưới dài 7.84 m, rộng 0.4 m, cao 0.3 m; tầng gạch phía trên dài 7.84 m, rộng 0.2 m, cao 0.48 m. Phía Bắc xây trên thửa đất số 463-3 và thửa đất số 463-2. Phần móng xây trên thửa đất số 463-3 gồm 02 tầng gạch; tầng gạch phía dưới dài 2.48 m, rộng 0.4 m, cao 0.12 m; tầng gạch phía trên dài 2.48 m, rộng 0.2 m, cao 1,9m. Phần móng xây trên thửa đất số 463-2 gồm 02 tầng gạch; tầng gạch phía dưới dài 2.72 m, rộng 0.4 m, cao 0.39m; tầng gạch phía trên dài 2.72 m, rộng 0.2 m, cao 0.53 m. Phía Nam xây trên thửa đất số 463-3 và thửa đất số 463-2. Phần móng xây trên thửa đất số 463-3 gồm 02 tầng gạch; tầng gạch phía dưới dài 1.96 m, rộng 0.4 m, cao 0.12 m; tầng gạch phía trên dài 1.96 m, rộng 0.2 m, cao 1.9m. Phần móng xây trên thửa đất số 463-2 gồm 02 tầng gạch; tầng gạch phía dưới dài 3.24m, rộng 0.4 m, cao 0.17 m; tầng gạch phía trên dài 3.24 m, rộng 0.2 m, cao 0.36 m.

– Bên trên phần móng đã đổ giằng bê tông, cao 0.2m, dày 0.2m.

– Bên trên giằng móng có 04 bức tường xây bằng gạch đất nung màu đỏ, loại gạch lỗ, xây tường rộng 0.1m (tường mười), cụ thể: Bờ tường phía Bắc có kích thước dài 5.2 m, cao 1.75 m, trên tường có 01 ô cửa kích thước (1.75×0.75)m, mặt ngoài tường có 01 cột bổ trụ xây bằng gạch đỏ đất nung cao 1.75 m, rộng 0.32m, dày 0.1 m. Bờ tường phía Nam có kích thước dài 5.2 m, cao 1.3 m, mặt ngoài tường có 01 cột bổ trụ cao 1.3 m, rộng 0.32 m, dày 0.1 m. Bờ tường phía Đông có kích thước dài 7.8 m, cao 1.47 m, có 03 ô cửa; ô cửa thứ nhất có kích thước (1.47×1.41)m; ô cửa thứ hai có thước (0.97×0.64)m; ô cửa thứ ba có kích thước (0.95×0.6)m. Mặt ngoài tường có xây 02 cột bổ trụ đều có kích thước như nhau là (1.47x 0.32×0.1)m. Bờ tường phía Tây có kích thước dài 7.8 m, cao 1.9 m, có 02 cửa. Cửa thứ nhất có kích thước (1.9×1.1)m. Cửa thứ hai có kích thước (1.1×0.63)m.

Ngày 24/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Ba đã có Công văn số 166/CQĐT đề nghị Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Thanh Ba xác định hình thể, diện tích công trình mà Hà Văn H đã xây dựng nêu trên. Tại Bản chỉnh lý trích lục bản đồ địa chính của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Thanh Ba xác định hiện trạng thửa đất đang xây dựng diện tích 43,4 m2, trong đó có 20,0 m2 xây dựng trên thửa đất số 463-2 và 23,4 m2 xây dựng trên thửa đất số 463-3.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Ba đã tiến hành làm việc với UBND xã Đ, huyện T xác định: Thửa đất số 463-2 và thửa đất số 463-3 đều thuộc tờ bản đồ số 10 có địa chỉ tại xứ Đ thuộc khu Đ, xã Đ, huyện T hiện đang do UBND xã Đ quản lý, chưa cấp GCNQSDĐ cho hộ dân nào và đều có mục đích sử dụng đất là đất trồng cây hàng năm khác.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Ba đã có Công văn đề nghị Phòng Tài nguyên & Môi trường huyện Thanh Ba cung cấp thông tin về hồ sơ quy hoạch đối 02 thửa đất trên. Ngày 22/07/2021, Phòng Tài nguyên & Môi trường huyện Thanh Ba đã có công văn trả lời cụ thể như sau: “Căn cứ quy hoạch sử dụng đất huyện Thanh Ba (được phê duyệt tại Quyết định số 3443/QĐUBND ngày 30/12/2013 và Quyết định số 733/QĐ-UBND ngày 5/4/2019 của UBND tỉnh Phú Thọ và kế hoạch sử dụng đất năm 2021 huyện Thanh Ba đã được UBND tỉnh Phú Thọ phê duyệt tại Quyết định số 3574/QĐ-UBND ngày 31/12/2020): Hai tha đất trên không nằm trong khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp Quá trình điều tra, Hà Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi chuyển đất trồng cây hàng năm khác sang đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép tại thửa đất số 463-2 tờ bản đồ số 10 và thửa đất số 463-3 tờ bản đồ số 10 đều thuộc xứ Đ, khu Đ, xã Đ, huyện T như đã nêu trên.

Đối với hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Cao Xuân H và ông Cao Xuân A khi không đủ điều kiện chuyển nhượng đã vi phạm quy định tại điểm a, khoản 1 điều 18 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP, ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Cơ quan điều tra đã chuyển đến vụ việc đến UBND xã Đ đề nghị xử lý vi phạm hành chính đối với ông H và ông A theo thẩm quyền.

Về vật chứng, đồ vật của vụ án hiện đang tạm giữ gồm: 01 chiếc thước xây dựng bằng kim loại màu xám bạc; 01 chiếc thước xây dựng bằng kim loại màu nâu, đen, xám và 01 chiếc xẻng, phần lưỡi bằng kim loại màu nâu xám.

Bản Cáo trạng số 41/CT-VKS.TB ngày 23/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Hà Văn H về tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung của bản Cáo trạng và đề nghị với Hội đồng xét xử như sau;

Áp dụng khoản 1 Điều 228; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 36 của Bộ luật hình sự: Phạt Hà Văn H từ 09 đến 12 tháng tháng cải tạo không giam giữ về tội “ Cố ý làm hư hỏng tài sản“.

Đề nghị không phạt bổ sung và không khấu trừ thu nhập bị cáo. Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe Kiểm sát viên trình bày luận tội, bị cáo Hà Văn H hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo không tự bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ và cho loại hình phạt nhẹ nhất.

Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai thế nào?

Nhận định của Tòa án về tội vi phạm quy định quản lý đất đai

Hiện nay quy định về tội vi phạm quy định quản lý đất đai đã được chúng tôi tư vấn bên trên. Sau khi đọc tóm tắt và hiểu về toàn bộ nội dung vụ án, chúng ta có thể tham khảo nhận định của Tòa án về Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Hà Văn H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, các tài liệu chứng cứ của vụ án đủ cơ sở để xác định: Sau khi nhận chuyển nhượng của ông Cao Xuân H và ông Cao Xuân A thửa đất số 463-2 và thửa số 463-3 tờ bản đồ số 10 thuộc khu vực xứ Đ, khu Đ, xã Đ, huyện T (việc chuyển nhượng chỉ bằng miệng, không có hợp đồng bằng văn bản và cũng không được cấp có thẩm quyền công nhận). Mặc dù biết rõ 02 thửa đất trên chưa được cấp GCNQSDĐ và thuộc loại đất trồng cây hàng năm khác do UBND xã Đ quản lý nhưng Hà Văn H không làm thủ tục đề nghị chuyển đổi mục đích sử dụng, cũng không được cơ quan có thẩm quyền cho phép mà tự ý mua vật liệu, thuê thợ và đã xây tường rào trên đất để sử dụng vào mục đích riêng và đã bị UBND xã Đ kiểm tra, lập biên bản vi phạm, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, hình phạt bổ sung buộc phải tự tháo dỡ toàn bộ công trình đã xây dựng trái phép trên 02 thửa đất nhưng Hà Văn H không thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là tự tháo tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép, khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất mà Hà Văn H yêu cầu thợ xây tiếp tục xây dựng công trình gồm móng nhà đổ giằng bê kiên cố, trên xây tường gạch. Do Hà Văn H tiếp tục vi phạm quy định về sử dụng đất đai nên ngày 01/6/2021, UBND xã Đ đã lập biên bản vi hành chính đối với Hà Văn H và chuyển hồ sơ vi phạm đề nghị cơ quan thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngoài lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, thì hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ khác gồm: Biên bản vi phạm và quyết định xử phạt vi phạm hành chính, biên bản kiểm tra hiện trạng đất, biên bản khám nghiệm và bản ảnh hiện trường…, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người có liên quan, lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Các tài liệu chứng cứ, vật chứng đều hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với thời gian, địa điểm thực hiện hành vi vi phạm, phù hợp với các tình tiết sự kiện khác của vụ án và đều được thu thập kiểm tra đánh giá đầy đủ, toàn diện khách quan đúng quy định của pháp luật Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Hà Văn H đã tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp bằng hình thức tự ý xây dựng công trình trên đất mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép đã vi phạm khoản 1 Điều 57 Luật Đất đai và khoản 2 Điều 11 nghị định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Mặc dù đã bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm này nhưng Hà Văn H vẫn không chấp hành biện pháp khắc phục hậu quả, không tự tháo dỡ công trình đã xây dựng để khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất mà vẫn tiếp tục cố ý vi phạm, tiếp tục xây dựng trái phép công trình trên đất, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quan hệ pháp luật về đất đai được pháp luật hình sự bảo vệ do vậy phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều luật quy định: “ 1. Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.

Thông tin liên hệ

Vấn đề “Bản án tội vi phạm quy định quản lý đất đai thế nào?” đã được Luật sư tư vấn luật đất đai giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư tư vấn luật đất đai chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc và cung cấp dịch vụ tới quý khách hàng liên quan tới soạn thảo hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất… Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833102102

Mời bạn xem thêm:

Câu hỏi thường gặp

Hành vi khách quan của tội vi phạm quy định quản lý đất đai thế nào?

Hành vi khách quan: hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về quản lí và sử dụng đất đai, thể hiện dưới các dạng:
– Hành vi lấn chiếm đất thuộc quyền quản lí, sử dụng của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc cá nhân khác như lấn chiếm đất thuộc các công trình di tích lịch sử, văn hóa, tôn giáo đã được Nhà nước công nhận.
– Hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lí, sử dụng đất đai như buôn bán đất đai trái phép
– Hành vi sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lí, sử dụng đất đai như đã khai thác bừa bãi, không đúng mục đích làm xói mòn, biến chất đất.

Hành vi lấn chiếm đất được hiểu như thế nào là đầy đủ?

 Lấn chiếm là từ ghép chỉ hành động “lấn” và “chiếm”. “ “Lấn”: Được hiểu là lấy thêm đất liền kề với đất của mình nhằm mở rộng diện tích, “Chiếm”: Được hiểu là dùng thủ đoạn chiếm lấy đất của người khác làm đất của mình mà trước đó mình không hề có.

Dấu hiệu khách quan khác của tội vi phạm quy định quản lý đất đai?

Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, Pháp luật hình sự Việt Nam còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như: Các quy định của nhà nước về sử dụng đất đai, các quy định này thường là của chính phủ hoặc của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Do đó, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về sử dụng đất đai, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của nhà nước quy định về sử dụng đất đai.